Thời điểm 50 năm trước, vua bóng đá Pelé sở hữu cho mình chiếc Mercedes-Benz W114 – dòng sedan cỡ lớn nổi tiếng của Mercedes, được sản xuất và kiểm soát chặt chẽ về chất lượng.
“Vua bóng đá” trút hơi thở cuối cùng ở tuổi 82 rạng sáng 30/12 (giờ Hà Nội) sau quãng thời gian dài chống chọi với bệnh ung thư.
Người đại diện của “Vua bóng đá”, Joe Fraga xác nhận thông tin Pele qua đời. Trang cá nhân của “Vua bóng đá” cũng cập nhật dòng trạng thái: “Cảm hứng và tình yêu đánh dấu hành trình của “Vua bóng đá” Pele, người đã ra đi trong yên bình vào hôm nay”.
Hôm 30/11, Pele nhập viện với triệu chứng “sưng toàn thân” và “suy tim”. Huyền thoại người Brazil vẫn kịp lên tiếng trấn an người hâm mộ rằng ông chỉ đến bệnh viện để kiểm tra sức khỏe hàng tháng, đồng thời gửi lời cảm ơn đến sự động viên của CĐV trên toàn thế giới.
Đến ngày 3/12, cơ thể của “Vua bóng đá” Pele không còn phản ứng với hóa trị và được chuyển sang chế độ “chăm sóc cuối đời” – chế độ chỉ dành cho người mắc các bệnh hoặc tình trạng có khả năng đe dọa đến tính mạng.
Pele được cắt bỏ một khối u ở kết tràng vào tháng 9/2021. Kể từ đó, ông thường xuyên phải ra, vào bệnh viện để được điều trị cơ bản và theo dõi sức khỏe hậu phẫu.
Pele sinh ngày 23/10/1940. Ông từng ghi 77 bàn sau 92 trận cho tuyển Brazil và là cầu thủ duy nhất lên ngôi vô địch World Cup 3 lần vào các năm 1958, 1962 và 1970.
Ở cấp CLB, Pele chỉ chơi cho 2 đội, đó là Santos và New York Cosmos, giành tổng cộng 27 danh hiệu lớn nhỏ, trong đó có 6 chức vô địch quốc gia Brazil, 2 Copa Libertadores,…
Sinh thời, “Vua bóng đá” khẳng định mình đã ghi 1.283 bàn trong sự nghiệp, bao gồm cả những trận chính thức và không chính thức. Dù đây là kỷ lục gây tranh cãi, nhưng không ai có thể phủ nhận tài năng và tầm ảnh hưởng của ông với nền bóng đá thế giới.
Pele và Maradona là hai trong số những nhân vật kiệt xuất của lịch sử bóng đá. Năm 2020, huyền thoại người Brazil từng có phát ngôn gây xúc động sau sự ra đi của Maradona: “Một ngày nào đó, tôi và Maradona sẽ cùng nhau chơi bóng trên thiên đường”.
Cách đây khoảng 40-50 năm, những siêu sao bóng đá thế giới không có trào lưu chơi xe như hiện nay. Họ thường thuê xe hoặc được tài trợ xe từ các đối tác quảng cáo như một phần trong hợp đồng.
Chính vì vậy, bộ sưu tập xe của các huyền thoại bóng đá trước đây không đắt giá, không độc lạ như các siêu sao hiện nay chơi xe.
Với Pelé cũng vậy, thời điểm đó “vua bóng đá” lựa chọn mẫu xe hạng sang của Đức là Mercedes-Benz W114 1970.
W114 là dòng sedan cỡ lớn nổi tiếng của Mercedes, được sản xuất và kiểm soát chặt chẽ về chất lượng. Dòng xe này cũng chỉ phân phối tại một số thị trường nhất định, mở đầu cho thời kỳ sản xuất những sản phẩm bền bỉ, an toàn và có kích thước lớn.
Xe có kiểu dáng sedan bốn cửa cổ điển do Paul Bracq thiết kế với đèn pha bố trí theo chiều dọc, lưới tản nhiệt lớn và lớp kính mang tính biểu tượng. Lớp mạ crom chạy khắp thân xe khiến nó nổi bật bởi sự khỏe khoắn và mạnh mẽ.
Tương tự, cabin trông vẫn sang trọng và đẳng cấp với cửa sổ trời, vải bọc màu sáng trên ghế ngồi êm ái – tương phản với màu đen của bảng điều khiển.
Dưới nắp ca-pô là động cơ xăng 2,3 lít sáu xi-lanh kết hợp với hộp số tự động cung cấp năng lượng cho bánh sau.
W114 được sản xuất từ năm 1968 đến năm 1976 là những “ông lớn” của Mercedes-Benz E-Class. Chúng cũng giống như những người kế nhiệm W123 đã được biết đến về độ tin cậy tuyệt vời khi có rất nhiều xe (trong số 1,9 triệu chiếc đã rời khỏi nhà máy) vẫn hoạt động tốt cho đến ngày nay.
Điều này là minh chứng rằng vào những năm 70, xe hơi được chế tạo để tồn tại lâu hơn rất nhiều so với chu kỳ sản phẩm ngắn ngày nay, đôi khi chúng còn sống lâu hơn cả chủ sở hữu ban đầu của mình.
50 năm trước, Mercedes đã bắt đầu tiên phong nghiên cứu về công nghệ an toàn trên xe hơi ra sao?
Nếu như không có Mercedes và Uỷ ban nâng cao độ an toàn xe hơi châu Âu (EEVC) cùng các nghiên cứu từ 1971 tới nay, ô tô sẽ không thể bảo vệ người ngồi trong tốt như ngày này.
Thập niên 60 thường được người yêu xe ca ngợi bởi những chiếc ô tô có thiết kế kinh điển và hiệu năng vận hành thú vị. Nhưng đổi lại, chúng có độ an toàn rất thấp bởi các tiêu chuẩn lỏng lẻo. Điều này đã dẫn tới tỷ lệ tử vong do tai nạn giao thông cao.
Năm 1970, chỉ riêng ở Tây Đức, 19.193 người đã thiệt mạng trên đường – con số kỷ lục cho tới thời điểm đó. Ở những nơi khác trên thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ, các kỷ lục tương tự cũng được thiết lập, khiến Bộ Giao thông Vận tải Mỹ (DOT) khởi động một chương trình thử nghiệm phương tiện an toàn.
DOT muốn chương trình của mình được nhân rộng ra toàn cầu và do đó nâng cao độ an toàn xe hơi châu Âu (EEVC) đã được thành lập vào năm 1970. Mercedes đã tham gia vào tổ chức mới này ngay từ những ngày đầu tiên, với nhiệm vụ sản xuất các Phương tiện An toàn Thử nghiệm (Experimental Safety Vehicles – ESV) của riêng mình.
Chiếc ESV đầu tiên được sản xuất có tên gọi ESF 05, dựa trên cơ sở Mercedes S-Class W114 trục cơ sở dài đã được ra mắt lần đầu vào cuối tháng 10/1971 ở Sindelfingen – Đức.
Ngay ở thời điểm này, chiếc xe đã có các thành tựu về mặt an toàn mà phải mất rất nhiều năm sau đó mới xuất hiện trên xe thương mại. Theo các yêu cầu của EEVC, ESF 05 phải chịu được các tác động phía trước và phía sau ở tốc độ 80km/h và tác động bên với cột ở 20km/h. Nó cũng phải chịu được một vụ tai nạn nhỏ ở tốc độ lên đến 16km/h mà không bị biến dạng vĩnh viễn.
Để đáp ứng các yêu cầu về mặt an toàn này, cấu trúc thân xe đã được gia cố ở phía trước và hai bên. Chiều dài cơ sở được kéo dài thêm 100mm và bộ cản trước dài hơn S-Class nguyên bản 370mm.
Dưới nắp ca-pô, ESF 05 nhận được một động cơ V6 với lốc máy ngắn hơn loại V8 hay 6 xi-lanh phổ biến thời đó để có thêm không gian hấp thụ lực va đập. Bảng điều khiển được làm bằng kim loại tấm hấp thụ va chạm và được bao phủ trong lớp đệm bọt polyurethane.
Mercedes cũng trang bị cho ESF 05 dây đai an toàn ba điểm tự điều chỉnh, túi khí phía trước người lái và hành khách phía trước, cũng như tựa lưng của hàng ghế trước để bảo vệ hành khách phía sau. Để tránh tai nạn, ESF 05 được trang bị hệ thống làm sạch đèn pha và ABS. Kết quả của tất cả những cải tiến, chiếc xe đã dài hơn 655mm và nặng hơn 655kg so với S-Class W114 tiêu chuẩn.
Kể từ đó, Mercedes đã sản xuất tổng cộng 35 xe cho chương trình EEVC. Nhiều năm trôi qua, các quy định an toàn đã trở nên nghiêm ngặt hơn nhiều, tỷ lệ thuận với độ phức tạp của các vấn đề và công nghệ nhằm đáp ứng được chúng. Chiếc xe ESF mới nhất của Mercedes dựa trên cơ sở GLE-Class, tập trung vào độ an toàn của hệ truyền động và pin.
Và khi các nhà sản xuất ô tô ngày càng làm việc nhiều hơn để tạo ra những chiếc ô tô tự hành, những câu hỏi mới phải được trả lời cho tương lai. Chẳng hạn như làm thế nào để bạn có thể tạo ra một chiếc ô tô an toàn khi người lái ngả hết lưng ghế hoặc thậm chí nghiêng sang một bên, như một số mẫu xe tự hành ý tưởng đã trình diễn.
Mặc dù đó là một quá trình không ngừng phát triển, nhưng không thể phủ nhận những nỗ lực trong suốt 50 năm qua đã thành công. Theo Mercedes, chỉ có 2.719 người chết trên các con đường ở toàn bộ nước Đức vào năm ngoái – ít hơn tới 16.474 người ít hơn 50 năm trước ở Tây Đức. Là chiếc xe bắt đầu cho cuộc cách mạng về an toàn, ESF 05 hiện đã có một vị trí danh dự tại Bảo tàng Mercedes-Benz ở Đức.
Tổng hợp