Chiếc Toyota Corolla đời 1993 của cụ ông 72 tuổi Craeme Hebley vẫn đều đặn chạy khoảng 5.000 km mỗi tuần dù ODO đã vượt mốc 2 triệu km.
Nói đến xe Toyota, người ta thường nghĩ ngay tới những “cỗ máy 4 bánh” bền bỉ và đáng tin cậy. Không có gì ngạc nhiên khi xe Toyota thường xuyên đứng đầu danh sách những mẫu ô tô chạy được lâu nhất. Chiếc Toyota Corolla đời 1993 dưới đây đã phần nào chứng thực điều đó.
Chiếc Toyota Corolla này thuộc sở hữu của ông Graeme Hebley (72 tuổi), hiện đang sinh sống tại New Zealand. Vào hồi tháng 3 năm nay, chiếc ô tô của ông Hebley đã chính thức đạt số ODO 2 triệu km. Tuy nhiên, ông Hebley tin rằng cứ đà này, chiếc Toyota Corolla của mình có thể chạy “mãi mãi”.
Được biết, ông Hebley đã mua chiếc Toyota Corolla này vào năm 2000. Vào thời điểm đó, chiếc xe đã sở hữu số ODO là 80.000 km. Sau 22 năm, ông Hebley đã đồng hành cùng chiếc Toyota Corolla trên tổng quãng đường hơn 1,92 triệu km.
Sở dĩ Hebley chạy nhiều như vậy vì ông làm nghề giao báo từ năm 1968. Từ đó đến nay, ông đã lái xe trên tổng quãng đường hơn 3 triệu km.
6 ngày 1 tuần, ông Hebley vẫn đều đặn lái chiếc Toyota Corolla của mình từ thủ đô Wellington đến thành phố New Plymouth thuộc Đảo Bắc của New Zealand và quay trở lại. Ông Hebley thường mất 4,5 tiếng đồng hồ để hoàn thành 1 chiều đi. Cộng cả chiều về thì mỗi ngày, ông ngồi trên xe hơi 9 tiếng đồng hồ. Trung bình mỗi tuần, ông đi khoảng 5.000 km.
Dù chạy nhiều như vậy nhưng chiếc Toyota Corolla của ông Hebley vẫn dùng động cơ và hộp số nguyên bản như lúc xuất xưởng. Nói cách khác, ông chưa từng phải thay động cơ hay hộp số cho chiếc xe của mình.
Để giữ chiếc Toyota Corolla luôn trong tình trạng tốt, cứ 2 tuần, ông Hebley lại mang xe đi bảo dưỡng tại gara Guthrie’s Auto Care ở Whanganui. Ông John Sherman – thợ sửa ô tô tại gara – đã xác nhận số ODO của chiếc Toyota Corolla sau nhiều năm bảo dưỡng xe.
“Nếu không bảo dưỡng nó, tôi sẽ không thể tin được. Tôi không thể tin là chiếc xe có thể chạy 2 triệu km mà không bị hỏng gì“, ông Sherman nói với phóng viên tờ New Zealand Herald.
Tất nhiên, nói như vậy không có nghĩa là chiếc Toyota Corolla này chưa từng thay thế bộ phận nào. Trên thực tế, xe đã thay dây đai trục cam khoảng 20 lần và thay cả ổ bi trục bánh.
Theo ông Sherman, sự kết hợp giữa những yếu tố như loại xe, bảo dưỡng thường xuyên và sự chăm sóc cẩn thận của ông Hebley đã giúp chiếc Toyota Corolla tiếp tục lăn bánh trên đường. Ông Sherman khẳng định chưa từng thấy chiếc xe nào đạt được số ODO như chiếc Toyota Corolla này. Chiếc xe có số ODO gần nhất với chiếc Toyota Corolla cũng chỉ đạt con số 700.000 km.
“Không có chiếc xe nào giống như thế này. Trong cả sự nghiệp của mình, đây là chiếc xe có số ODO cao nhất mà tôi từng chứng kiến“, ông Sherman nói thêm.
Sau khi chiếc Toyota Corolla đạt số ODO 2 triệu km, ông Hebley vẫn chưa có ý định nghỉ hưu. Ông vẫn thực hiện những chuyến đi đường dài trên khắp Đảo Bắc của New Zealand mỗi tuần. Ông khẳng định bản thân chưa có ý định ngừng lái trong tương lai gần.
“Sao mà có thể không yêu thích chiếc xe này cho được? Bạn cho đi thứ gì thì sẽ nhận lại điều tương tự“, ông Hebley kết luận. Thậm chí, Hebley còn tin rằng chiếc xe sẽ “sống thọ” hơn cả ông.
Toyota Corolla là một dòng xe subcompact và compact được sản xuất bởi hãng Toyota. Được giới thiệu vào năm 1966, Corolla là chiếc xe bán chạy nhất trên toàn thế giới vào năm 1974 và là một trong những chiếc xe bán chạy nhất mọi thời đại kể từ đó.
Năm 1997, Corolla trở thành kiểu xe bán chạy nhất thế giới, vượt qua cả Beetle của Volkswagen. Toyota đạt mốc 44 triệu xe Corolla được bán trong mười hai thế hệ vào năm 2016. Dòng xe này đã trải qua một số lần thiết kế lại khá lớn.
Cái tên Corolla là một phần trong truyền thống đặt tên của Toyota về việc sử dụng các tên bắt nguồn từ Toyota Crown cho dòng xe mui trần, với “corolla” là từ Latin có nghĩa là “vương miện nhỏ”.
Corolla luôn được độc quyền tại Nhật Bản cho các địa điểm bán hàng của Toyota Corolla Store và được sản xuất tại Nhật Bản với một xe song sinh, được gọi là Toyota Sprinter cho đến năm 2000.
Từ năm 2006 đến 2018 tại Nhật Bản và nhiều nơi trên thế giới, và kể từ năm 2018 tại Đài Loan, người bạn đồng hành hatchback của xe này được gọi là Toyota Auris.
Lịch sử phát triển của Toyota Corolla
Trải qua hơn 50 năm qua, Toyota Corolla là dòng xe có tuổi đời lâu nhất mà các bạn từng biết. Nhưng lý do nào mà chiếc xe này tồn tại lâu đến vậy, hãy để chúng tôi ngược lại dòng lịch sử kể cho bạn biết thuở sơ khai của dòng xe nổi tiếng này.
1969-1970 Thế hệ thứ nhất
Toyota bắt đầu phát triển dòng xe Corolla vào năm 1966. Đến những năm 1968-1969 Corolla bắt đầu được giới thiệu sang thị trường Hoa Kì. Kiểu dáng xe đơn giản, nhỏ gọn và sử dụng động cơ 1.1L có công suất 60 mã lực, con số có vừa đủ dành cho thế hệ đầu tiên của dòng xe đến từ Nhật Bản. Giá khởi điểm vào lúc đó là 1.700$, trang bị giảm chấn bằng nhíp và sử dụng hộp số sàn 4 cấp.
1971-1974 Thế hệ thứ hai
Toyota Corolla đã trở thành chiếc xe bán chạy nhất hành tinh vào những năm 1970. Xe được trang bị loại động cơ mới 1.6L, tăng thêm 13 mã lực so với thế hệ đầu tiên. Hộp số sàn được nâng cấp thành 5 cấp và có thêm phiên bản số tự động, chiều dài cơ sở được kéo dài thêm.
Ở thị trường quốc tế (ngoại trừ thị trường Hoa Kì) Toyota giới thiệu thêm hai phiên bản Corolla Levin và Corolla Sprinter Trueno, cả hai đều được trang bị động cơ có trục cam đôi, mang đến doanh số tăng vọt cho dòng Corolla.
1975-1978 Thế hệ thứ ba
Vào giữ thập niên 70, Toyota ra mắt 5 phiên bản Corolla khác nhau, đặc biệt nhất là chiếc SR5. Thế hệ thứ 3 này đánh dấu giai đoạn phát triển mạnh mẽ nhất của dòng Corolla ở thị trường Hoa Kì. Tiếp tục trong năm 1976, Toyota ra mắt công chúng chiếc Corolla Sport Coupe.
1979-1983 Thế hệ thứ tư
Sự thay đổi lớn trong phiên bản thế hệ thứ tư là vào năm 1983, Toyota đã thay thế động cơ OVH (xuc-pap dạng cò mổ) sang động cơ có xilanh nhôm và trục cam đơn SOHC (xuc-pap đặt ngay trên nắp máy) trên Corolla, trang bị phun xăng điện tử và nội thất cực kì rộng rãi. Nhưng tất cả các trang bị này chỉ xuất hiện trên những xe của thị trường Nhật Bản.
1984-1987 Thế hệ thứ năm
Lần đầu tiên Toyota mang đến cho Corolla tùy chọn hệ thống dẫn động cầu trước FWR. Nhưng tất cả mọi sự chú ý đều đổ dồn về chiếc Corolla GT-S với biệt danh “AE86” có hệ dẫn động cầu sau RWD với hai phiên bản coupe và hatchback.
EA86 trang bị động cơ 4A-GE sử dụng trục cam đôi đạt công suất 124 mã lực có được những giá trị lịch sử nhất định khi được ưa chuộng như một dòng xe thể thao, đặc biệt là các ai ưa thích việc drift xe. Một phiên bản khác cũng được ra mắt có tên Corolla FX16 sử dụng động cơ DOHC và có cầu trước chủ động.
1988-1992 Thế hệ thứ sáu
Năm 1988 Toyota loại bỏ phiên bản sử dụng dẫn động cầu sau, tất cả đều sử dụng hệ dẫn động cầu trước FWD. Động cơ là loại DOHC 16 van tiên tiến và nâng cấp thành hệ thống treo độc lập. Trên dòng sedan và wagon được trang bị hệ thống dẫn động bốn bánh (AWD). Đến năm 1991, phiên bản couple ngừng sản xuất.
1993-1997 Thế hệ thứ bảy
Vào thời điểm này thì Corolla thay đổi rất nhiều về mặt thẩm mỹ, chững chạc hơn. Hệ thống treo độc lập được trang bị tiêu chuẩn như trên những mẫu xe ngày nay. Động cơ 4A-GE mới với 5 xu-páp trên mỗi xylanh, xu-pap nạp mới có đường kính lớn hơn giúp hiệu quả nạp tốt hơn. Thế hệ Corolla này trở thành một trong những cái tên bán chạy nhất trong lịch sử xe hơi.
1998-2002 Thế hệ thứ tám
Một lần nữa, Corolla được cải tiến đáng kể, tiêu hao nhiên liệu được cải thiện rõ rệt nhờ được trang bị động cơ 1ZZ-FE đạt công suất 120 mã lực. Vào năm 2000, Toyota trang bị công nghệ VVT-i giúp động cơ tăng thêm 5 mã lực.
2003-2008 Thế hệ thứ chín
Đây có thể xem là hế hệ thành công nhất trong vòng đời của Corolla. To lớn hơn, rộng hơn và mạnh mẽ hơn. Vào năm 2005 phiên bản XRS được ra mắt với động cơ 2ZZ-GE 2.4L cùng động cơ với mẫu Toyota Celica đạt công suất 170 mã lực, sử dụng hộp số sàn 6 cấp. Mẫu XRS được trang bị hệ thống treo mới đi cùng la-zăng trẻ trung hơn.
2009-2013 Thế hệ thứ mười
Vào thời điểm này Corolla tiếp tục giũ vững ngôi đầu về doanh số xe bán ra, ngoại thất được nâng cấp lên với nhiều đường góc cạnh. Xe được trang bị hàng loạt các tiện ích như: Hệ thống kiểm soát độ bám đường ( Traction Control), khả kết nối với iPod, Bluetooth, vô-lăng được trang bị nút bấm điều khiển hệ thống âm thanh.
2014-2016 Thế hệ thứ mười một
Thế hệ hiện nay nhận được khá nhiều lời khen từ người tiêu dùng, với kích thước lớn hơn, thiết kế đẳng cấp hơn, có thể một số người nhầm lẫn nó với chiếc Camry. Hiện nay, bạn có thể chọn mua cho mình phiên bản hộp số CVT hoặc hộp số tự động 4 cấp với các trang bị kèm theo như: Camera lùi, chế độ lái Eco…
Theo Đánh giá xe, Thanh niên Việt